1. Khái niệm và bản chất của toàn cầu hóa kinh tế:
– Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế:

Về mặt kinh tế, có thể hiểu toàn cầu hóa (TCH) là quá trình lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Trong đó, hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động,… vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến vận hành theo các “luật chơi chung” được hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau.

Tham khảo thêm các bài viết sau:
+ hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
+ Hàng hóa sức lao động là gì
+ hiệu quả đầu tư

– Bản chất của toàn cầu hóa kinh tế (TCH KT)

Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội khác, toàn cầu hóa kinh tế phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng tham gia quá trình đó. Từ sau khi Liên Xô tan rã, Chủ nghĩa xã hội (CNXH) bị xóa bỏ ở các nước Đông Âu, tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế, các nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới từ sản xuất tới vốn, công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin và giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức kinh tế. Từ đó, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, “các luật chơi” có lợi cho chúng. Tính chất đế quốc của quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hiện nay và ngày càng thể hiện rõ. Trong văn kiện Đại hội IX – Đảng ta đã nhấn mạnh: TCH KT là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…

2. Tính hai mặt của quá trình TCH KT:
TCH KT là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của TCH KT được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. TCH KT có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. TCH KT đang ngày càng lôi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị – xã hội khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong nhiều năm tới TCH KT chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả các quốc gia, dân tộc. TCH KT chưa phải là môi trường tốt đẹp mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau và không ai phải trả giá. Xu thế TCH KT diễn ra không trôi chảy, dễ dàng mà phải thông qua quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước: các nước phát triển và các nước đang phát triển, trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa TCH và liên kết khu vực, giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch…

2.1. Những tác động tích cực của TCH KT:
– TCH KT thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế thế giới. Trong đó, cơ cấu kinh tế thế giới có bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển nhờ tham gia TCH KT họ có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước.

– TCH KT thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.

– Dưới tác động của quá trình TCH, những thành tựu của khoa học – công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ để phát triển.

– Cùng với quá trình TCH KT, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư. (Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm 1997 gấp 800 lần năm 1914)

– TCH KT thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển được trong nền KTTT thế giới.

– TCH làm cho mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng…

– TCH KT mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi người có điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế.

– Về mặt chính trị, quá trình TCH KT làm gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Tóm lại, dưới tác động của TCH KT, thế giới ngày nay trở thành một thế giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con người ngày càng có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện. Cùng với TCH là xu thế khu vực hóa. Xu thế khu vực hóa phản ánh sự khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa dạng, trong đó sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và quyết liệt.

2.2. Những tác động tiêu cực của TCH KT:
Những tác động tiêu cực của quá trình TCH KT bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình TCH KT, lợi dụng quá trình TCH KT để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình TCH KT:

– TCH KT thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặc khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường…). Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là chuyển giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước này.

– TCH KT tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước khác, thực hiện “diễn biến hòa bình” thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân phương Tây. Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản…

Thông qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế quốc tìm cách gây sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con đường XHCN về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo…, dùng mọi hình thức để can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó.

– TCH KT làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền KTTT phát triển (Mỹ, EU, Nhật…), những nước chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu tố của KTTT chưa được hình thành đồng bộ.

Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), toàn thế giới vẫn còn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại, dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công nghiệp phát triển, với khoảng 1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu, trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1% GDP toàn cầu.

Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các nước giàu chỉ gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này đã tăng: 288 lần.