Quy định về hợp đồng vay tài sản
1.Khái niệm
Theo quy định tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự 2015 hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Pháp luật dân sự hiện hành không quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng vay tài sản. Theo đó, giao dịch vay tài sản có thể được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
2.Quy định pháp luật
Do đó, việccho vay tiền nếu không lập thành văn bản mà chỉ giao kết bằng lời nói thì hợp đồng này vẫn có giá trị pháp lý, hai bên vẫn có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận.
Điều 466 Bộ luật này quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:
"1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
[...] 5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác"
Theo đó, người cho vay có quyền yêu cầu người vay trả số tiền còn thiếu, nếu các bên có thỏa thuận lãi suất được ghi nhận theo quy định pháp luật thì có thể yêu cầu trả tiền lãi đối với khoản vay tương ứng.
Trường hợp người vay kia không trả tiền đã vay tức là đã vi phạm nghĩa vụ của mình thì người cho vay có thể khởi kiện đến tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang cư trú để yêu cầu người này thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Theo đó đối với trường hợp khởi kiện đòi nợ, thời hiệu khởi kiện là 3 năm kể từ khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ và các bên không có thỏa thuận gia hạn thời hạn cho vay. Kể từ thời điểm bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bên cho vay được cho là có quyền, lợi ích bị xâm phạm và được khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tuy nhiên, thời hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu, nếu bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong một phần hay đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện hoặc các bên đã tự hoà giải với nhau.
Trường hợp nếu đã đến thời hạn phải trả nợ nhưng người vay chưa thanh toán theo đúng thỏa thuận thì Tòa án vẫn có thể buộc người vay phải thanh toán nợ, lãi và bồi thường thiệt hại cho người cho vay
>>>>> Xem thêm: Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty cổ phần